Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên còn lại (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để nhận được một khoản tiền (bảo đảm khoản vay) hoặc vật chất khác hoặc nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cho chính mình hoặc cho người thứ ba.
- Đặc điểm của cầm cố tài sản
- Tài sản dùng để cầm cố phải thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố và có thể chuyển nhượng được. Nghĩa là, những gì không phải là tài sản như giấy tờ tùy thân hay giấy tờ liên quan đến tài sản thì không được sử dụng trong chế định cầm cố.
- Tài sản cầm cố thường được giao cho bên nhận cầm cố, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc chuyển giao tài sản đảm bảo trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản khi bên cầm cố hoặc người thứ ba được bên cầm cố ủy quyền giữ tài sản. Việc chuyển giao tài sản cầm cố không đồng nghĩa với việc chuyển quyền sở hữu tài sản đó.
- Bên cầm cố có thể dùng tài sản của mình để cầm cố nhằm thực hiện việc bảo đảm cho nghĩa vụ của mình trong quan hệ dân sự hoặc có thể là dùng để bảo đảm cho người khác.
- Hiệu lực của cầm cố tài sản
- Về nguyên tắc, hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, các bên cũng có thể thỏa thuận về thời điểm của hiệu lực của việc cầm cố này.
- Cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ được tài sản cầm cố. Trường hợp đối tượng cầm cố là bất động sản thì việc cầm cố có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
- Chấm dứt cầm cố và xử lý tài sản cầm cố
- Chấm dứt cầm cố tài sản trong các trường hợp sau đây:
- Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cách cầm cố chấm dứt.
- Việc cầm cố tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
- Tài sản cầm cố đã được xử lý.
- Theo thỏa thuận của các bên.
- Xử lý tài sản cầm cố:
- Bên cầm cố thực hiện xong nghĩa vụ của mình:
Sau khi chấm dứt việc cầm cố tài sản thì Bên nhận cầm cố có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bên cầm cố tài sản mà bên cầm cố đã giao cho bên nhận cầm cố. Tài sản hoàn trả lại phải không bị thay đổi giá trị một cách đáng kể, trường hợp tài sản cấm cố bị thay đổi giá trị do lỗi của bên nắm giữ tài sản thì bên giữ tài sản phải bồi thường thiệt hại cho Chủ sở hữu.
- Bên cầm cố không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình:
Trong trường hợp này, tài sản cầm cố sẽ được xử lý theo phương thức mà các bên thoả thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố có được. Số tiền còn lại sẽ dùng để thanh toán cho các nghĩa vụ khác phát sinh và hoàn trả cho người cầm cố.
Trên thực tiễn, có rất nhiều chủ thể không phân biệt được giữa cầm cố và thế chấp. Do vậy từ những cơ sở đã phân tích trên ta có thể phân biệt được những điểm giống và khác nhau của 2 loại biện pháp bảo đảm này. Cụ thể như sau:
Thế chấp và cầm cố tài sản có một số điểm chung sau:
- Thứ nhất, chủ thể thực hiện việc thế chấp hoặc cầm cố đều cần phải có tài sản có giá trị tương ứng với nghĩa vụ cần bảo đảm.
- Thứ hai, hướng xử lý tài sản thế chấp và tài sản cầm cố là như nhau khi nghĩa vụ không được thực hiện đúng.
Tuy nhiên hai biện pháp trên có điểm khác biệt đó là thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp). Do đó trong thế chấp “không chuyển giao tài sản” còn trong cầm cố có việc “giao tài sản”.