Bên cạnh các biện pháp bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký cược hay kỹ quỹ, Bộ luật dân sự còn có quy định về biện pháp bảo đảm là bảo lãnh.
Bảo lãnh là một biện pháp đảm bảo để thực hiện nghĩa vụ của giao dịch, hợp đồng dân sự. Bảo lãnh là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Chủ thể trong chế định bảo lãnh
Các chủ thể trong hợp đồng bảo lãnh bao gồm 3 chủ thể: người được bảo lãnh, người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh.
Bên được bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh là bên mà theo đó được bên bảo lãnh đứng ra cam kết với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay vì vậy, trong quan hệ bảo lãnh bên được bảo lãnh không có quyền đối với bên bảo lãnh cũng như đối với bên nhận bảo lãnh. Mà trong quan hệ này, bên được bảo lãnh phải có các nghĩa vụ sau:
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh như đã thỏa thuận;
- Trả thù lao cho bên bảo lãnh như đã thỏa thuận;
- Thực hiện nghĩa vụ đối với bên bảo lãnh trong trường hợp bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ thay;
- Bên bảo lãnh
Bên bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh là bên đứng ra cam kết với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện. Vì vậy, trong quan hệ bảo lãnh bên bảo lãnh có cả quyền và nghĩa vụ ứng với bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh:
Bên bảo lãnh có các quyền sau:
- Yêu cầu bên được bảo lãnh trả thù lao như đã thỏa thuận;
- Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
Bên bảo lãnh có các nghĩa vụ sau:
- Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó;
- Phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh cho một người và có yêu cầu của bên nhận bảo lãnh.
- Bên nhận bảo lãnh
Bên nhận bảo lãnh có các quyền sau:
- Trường hợp bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại;
- Miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh hoặc miễn thực hiện nghĩa vụ cho một trong những người bảo lãnh trong trường hợp nhiều người cũng bảo lãnh cho một người;
- Chỉ định người phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong trường hợp nhiều người cùng bảo lãnh cho một người.
- Căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh
Quy định trên cho thấy nghĩa vụ bảo lãnh chỉ phát sinh khi có “ Cam kết” của người bảo lãnh. Không có cam kết của người bảo lãnh thì được cho là không tồn tại nghĩa vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh tồn tại dưới 2 dạng hình thức gồm hành vi pháp lý đơn phương hay phát sinh từ thỏa thuận giữa người bảo lãnh và bên có quyền (bên nhận bảo lãnh).
Do đó để xác định căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh. Cần xác định bảo lãnh phát sinh từ những hình thức luật định như trên.
- Phạm vi bảo lãnh
Phạm vi nghĩa vụ mà bên bảo lãnh sẽ phải thực hiện được gọi là phạm vi bảo lãnh. Phạm vi bảo lãnh có thể là:
- Một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh;
- Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác;
- Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
- Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Trong trường hợp này, phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại;
- Chấm dứt bảo lãnh
Biện pháp bảo đảm “Bảo lãnh” chấm dứt khi có một trong các căn cứ sau:
- Nghĩa vụ được bảo lãnh đã không còn.
Mục đích sử dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên có quyền, và nó mang tính dự phòng cho việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, đồng thời nó cũng ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do sự vi phạm nghĩa vụ của bên nghĩa vụ gây ra. Vì vậy, việc nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh chấm dứt thì việc bảo lãnh cũng chấm dứt là điều đương nhiên vì thời hạn tồn tại bảo lãnh là thời hạn tồn tại nghĩa vụ được bảo lãnh.
- Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
Trong cả hai trường hợp này thì biện pháp bảo lãnh đều chấm dứt. Nhưng chấm dứt việc bảo lãnh trong hai trường hợp này có sự khác biệt. Ở trường hợp chấm dứt việc bảo lãnh khi việc bảo lãnh được các bên thỏa thuận hủy bỏ thì lúc này quan hệ nghĩa vụ giữa bên có nghĩa vụ và bên có quyền trở thành quan hệ nghĩa vụ không có biện pháp bảo đảm. Ở trường hợp chấm dứt việc bảo lãnh do các bên thỏa thuận thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác thì quan hệ nghĩa vụ giữa bên có nghĩa vụ và bên có quyền vẫn là quan hệ nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
- Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
- Bên bảo lãnh đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
- Cơ quan có thẩm quyền đã cưỡng chế bên bảo lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh. Và khi nghĩa vụ bảo lãnh đã được thực hiện xong thì đương nhiên quan hệ bảo lãnh chấm dứt.
Trường hợp này, khi bên được bảo lãnh đã thực hiện hợp đồng thì lúc này đối tượng của việc bảo lãnh không còn nữa. Vì vậy việc chấm dứt bảo lãnh là đương nhiên.
- Theo thỏa thuận của các bên”
Xác lập biện pháp bảo lãnh trên cơ sở thỏa thuận của các bên, cho nên pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận đó. Vậy khi các bên thỏa thuận chấm dứt việc bảo lãnh thì việc bảo lãnh sẽ chấm dứt (trừ trường hợp pháp luật không cho phép thỏa thuận chấm dứt việc bảo lãnh).