Họ tên: NGUYỄN THÀNH TỰU
Chức danh: Thạc sĩ - Luật sư - Trọng Tài Thương Mại - CEO
Điện thoại: +84 09.19.19.59.39
Email: tuulawyer@nvcs.vn
Lĩnh vực tư vấn: Đầu Tư Nước ngoài- Sở hữu Trí tuệ -M&A- Tranh chấp tại tòa.
Ngôn ngữ: Tiếng Việt - tiếng Anh
- 1. Cấp dưỡng là gì?
- 2. Quy định luật hôn nhân trước đây về cấp dưỡng?
- 3. Nghĩa vụ cấp dưỡng là gì?
- 4. Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
- 5. Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng
- 6. Nghĩa vụ cấp dưỡng tồn tại trong các mối quan hệ nào?
- 6.1. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ của cha, mẹ đối với con
- 6.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ của con đối với cha, mẹ
- 6.3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa anh, chị, em
- 6.4. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
- 6.5. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột
- 6.6. Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa vợ và chồng khi ly hôn
- 7. Phương thức và mức cấp dưỡng
- 8. Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
- 9. Vì sao nên chọn dịch vụ luật sư hôn nhân gia đình tại Công ty luật TNHH Quốc tế Nguyễn và Cộng sự - NVCS
Cấp dưỡng là gì?
Theo quy định tại Khoản 24 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cấp dưỡng là hành vi của một cá nhân có nghĩa vụ cung cấp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống. Ngoài ra, cấp dưỡng cũng áp dụng trong các trường hợp sau:
- Nuôi dưỡng khi đó là trường hợp của người chưa thành niên.
- Nuôi dưỡng khi đó là trường hợp của người đã đủ tuổi thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Nuôi dưỡng khi đó là trường hợp của người gặp khó khăn, thiếu thốn, theo quy định của pháp luật.
cap-duong-la-gi-nvcs
Quy định luật hôn nhân trước đây về cấp dưỡng?
Trong quan hệ gia đình, chẳng hạn như quan hệ giữa cha mẹ và con, hoặc giữa ông bà và cháu, một quan hệ quan trọng xuất hiện là quan hệ cấp dưỡng. Thuật ngữ "cấp dưỡng" vẫn được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau trong lĩnh vực pháp luật và đời sống thực tế, không chỉ giới hạn trong quan hệ gia đình. Ví dụ, khi vợ chồng ly hôn và một bên không sống chung với con cái, họ có nghĩa vụ cung cấp hỗ trợ tài chính cho con cái. Tương tự, khi một trong hai người trong vợ chồng bị ốm đau hoặc bệnh tật và không thể lao động, người kia có nghĩa vụ cung cấp hỗ trợ tài chính.
Mặc dù có sự phân biệt giữa quan hệ cấp dưỡng và quan hệ nuôi dưỡng trong một số trường hợp, nhưng trong thực tế đời sống và trong nghiên cứu pháp luật, không luôn có sự phân biệt rõ ràng giữa hai khái niệm này. Chẳng hạn, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 không tạo ra sự phân biệt cụ thể giữa chúng. Quan trọng nhất, quan hệ cấp dưỡng là một mối quan hệ tài sản liên quan đến việc cung cấp hỗ trợ tài chính cho người được nuôi dưỡng và không thể chuyển giao cho người khác. Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ này và không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là gì?
Theo quy định tại Điều 107 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, nghĩa vụ cấp dưỡng áp dụng trong các mối quan hệ sau:
- Giữa Cha mẹ và con cái.
- Giữa các anh, chị, em trong gia đình.
- Giữa Ông bà nội, ông bà ngoại và cháu.
- Giữa Cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột.
- Giữa Vợ và chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Nghĩa vụ cấp dưỡng là một nghĩa vụ động viên tiền hoặc tài sản khác để đảm bảo nhu cầu cơ bản của người không sống chung với mình, nhưng có mối quan hệ nêu trên. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và cũng không thể chuyển giao cho người khác.
Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh nghĩa vụ của mình, cá nhân, cơ quan, hoặc tổ chức có thẩm quyền có quyền yêu cầu người đó thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người này không tuân thủ yêu cầu, Tòa án có thể buộc người đó phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
Người có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
Trong tình huống mà người phải cấp dưỡng không thực hiện tự nguyện, không tuân theo nghĩa vụ hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, những thực thể sau đây có quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng:
+ Người được cấp dưỡng, cha mẹ hoặc có thể là người giám hộ của người đó.
+ Người thân thích.
+ Cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề gia đình.
+ Cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề trẻ em.
+ Hội Liên hiệp phụ nữ.
Ngoài ra, cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức khác khi có phát hiện những hành vi trốn tránh thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được có quyền đề nghị cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền yêu cầu Tòa án buộc người không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Lưu ý rằng, bản án của Tòa án về cấp dưỡng có thể được thi hành ngay lập tức, ngay cả khi có kháng cáo hoặc khiếu nại (xem lại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tuân theo quyết định của Tòa án, người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của họ có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ đó.
nguoi-co-quyen-yeu-cau-cap-duong-nvcs
Quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng
Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình phát sinh khi đáp ứng các điều kiện sau:
+ Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
+ Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng không cùng sống chung với nhau, hoặc người có nghĩa vụ cấp dưỡng trốn tránh thực hiện nghĩa vụ, và trong trường hợp này, người có nghĩa vụ cấp dưỡng buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
+ Người được cấp dưỡng phải là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, hoặc là người gặp khó khăn và túng thiếu.
+ Người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải là người đã thành niên và có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Xem thêm: THỦ TỤC MỚI NHẤT VỀ GIÀNH QUYỀN NUÔI CON SAU LY HÔN 2024
Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng
Nghĩa vụ cấp dưỡng bao gồm những đặc điểm sau:
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ tài sản mang tính chất đặc biệt và không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác. Khi người chưa thành niên hoặc người đã thành niên mà không có khả năng lao động và cũng không có tài sản để tự nuôi mình cần được cấp dưỡng, người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải cung cấp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, nhằm đảm bảo cuộc sống của họ. Do vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác.
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng không được chuyển giao cho người khác. Nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ tồn tại giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, và là nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân mỗi chủ thể nhất định, cũng không thể chuyển giao cho người khác.
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng có tính chất có đi có lại, nhưng không đồng thời và tuyệt đối. Tính chất có đi, có lại thể hiện ở việc các chủ thể đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau nếu một bên chủ thể rơi vào tình trạng cần được cấp dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng không mang tính chất đồng thời có nghĩa là trong cùng một thời điểm, chỉ có thể một bên cấp dưỡng cho bên kia, không thể xuất hiện ngược lại là bên kia lại cấp dưỡng cho bên này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không xảy ra tuyệt đối và chỉ phát sinh khi có những điều kiện nhất định.
+ Cấp dưỡng là nghĩa vụ của một người để đóng góp tiền hoặc tài sản khác nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình, nhưng có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng trong các trường hợp sau:
- Người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
- Người được cấp dưỡng là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, hoặc người trong tình cảnh gặp khó khăn, túng thiếu, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HNGĐ 2014).
Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con không phân biệt giữa con đẻ và con nuôi, con có cha mẹ tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc mối quan hệ con có cha, mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, khi con không sống chung với cha mẹ hoặc sống chung với cha mẹ nhưng cha mẹ vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Quan hệ cấp dưỡng tập trung vào việc đóng góp tài sản của cha mẹ để đảm bảo sự phát triển và hoàn thiện về thể chất và tinh thần của con. Quan hệ cấp dưỡng được coi là một trong những quyền và nghĩa vụ tài sản (liên quan đến nhân thân) quan trọng giữa cha mẹ và con theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quan hệ cấp dưỡng phát sinh khi người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Cha mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng
Thông thường, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con phát sinh ngay từ thời điểm con được sinh ra. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ này không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn chứa đựng một nhu cầu bản năng của mỗi người. Khi cha mẹ không có khả năng trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con, họ sẽ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng để đáp ứng nhu cầu của con. Quyền cấp dưỡng cho con khi cha mẹ ly hôn thường được thể hiện thông qua bản án hoặc quyết định về việc giải quyết ly hôn. Thời điểm quan hệ cấp dưỡng phát sinh được xác định dựa trên sự thỏa thuận của các bên hoặc theo quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa cung cấp quy định chi tiết về việc cấp dưỡng cho con khi cha mẹ sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Trong trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên, quan hệ cấp dưỡng sẽ chính thức thiết lập khi có quyết định hạn chế quyền từ phía Tòa án. Thực tế cho thấy, trong cả hai trường hợp: cấp dưỡng khi ly hôn và cấp dưỡng khi cha mẹ bị hạn chế quyền, quan hệ cấp dưỡng diễn ra liên tục mà không có sự gián đoạn. Tuy nhiên, có những trường hợp cha mẹ hoàn toàn không thực hiện trách nhiệm của mình trong việc nuôi dưỡng con, gây ảnh hưởng không chỉ đến quyền lợi của con mà còn tạo khó khăn cho người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ. Trong những trường hợp này, một bên đã yêu cầu bên vợ/chồng còn lại trả chi phí nuôi con trong thời gian họ không sống chung với nhau và một bên không thực hiện nghĩa vụ đối với con.
Nếu như đối với cả hai trường hợp kể trên, quan hệ cấp dưỡng tự nhiên phát sinh dựa trên mối quan hệ cha-mẹ-con, thì quan hệ cấp dưỡng khi cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp là một tình huống khác biệt. Việc cấp dưỡng giữa các chủ thể chỉ có thể xảy ra (dưới góc độ pháp lý) khi có sự công nhận của Tòa án về mối quan hệ cha-con/mẹ-con. Điều này đặt ra vấn đề về thời điểm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Việc đóng góp tài sản để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng con là những quyền và nghĩa vụ tự nhiên giữa cha mẹ và con. Mặc dù pháp luật không có quy định cụ thể, nhưng có thể hiểu rằng quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con phát sinh ngay từ thời điểm con được sinh ra. Tuy nhiên, cũng có trường hợp con được sinh ra một khoảng thời gian trước khi cha hoặc mẹ được xác định. Vấn đề đặt ra là việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa người được xác định là cha/mẹ và con phát sinh từ thời điểm con được sinh ra hay từ thời điểm có bản án hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận quan hệ cha/mẹ-con.
Nghĩa vụ cấp dưỡng tồn tại trong các mối quan hệ nào?
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ của cha, mẹ đối với con
Theo Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nghĩa vụ này được áp dụng nếu nằm trong trường hợp cha, mẹ không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ của con đối với cha, mẹ
Theo Điều 111 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, con đã thành niên không sống chung với cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha, mẹ trong trường hợp cha, mẹ không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa anh, chị, em
Theo Điều 112 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng để lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con, thì anh, chị khi đã thành niên không sống chung với em sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em khi chưa thành niên mà không có tài sản để tự nuôi mình. Hoặc em khi đã thành niên không có khả năng lao động và cũng không có tài sản để tự nuôi mình; em khi đã thành niên không sống chung với anh, chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh, chị không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu
Theo Điều 113 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu khi chưa thành niên hoặc cháu khi đã thành niên không có khả năng để lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và cũng không có người cấp dưỡng theo quy định. Cháu khi đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại cũng sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng theo quy định.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột
Theo Điều 114 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trong trường hợp cháu khi chưa thành niên hoặc cháu khi đã thành niên không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà cũng không có những người khác cấp dưỡng theo quy định. Cháu khi đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột cũng có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trong trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng để lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà cũng không có người khác cấp dưỡng theo quy định.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng trong mối quan hệ giữa vợ và chồng khi ly hôn
Theo Điều 115 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, khi ly hôn nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì một bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình.
Phương thức và mức cấp dưỡng
Phương thức cấp dưỡng
Theo Điều 117 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, phương thức cấp dưỡng có thể được thực hiện theo các khoảng thời gian khác nhau, bao gồm định kỳ theo hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc cấp dưỡng một lần.
Các bên có quyền thỏa thuận thay đổi phương thức để cấp dưỡng hoặc tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng gặp phải khó khăn về mặt tài chính và không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trường hợp không thể thỏa thuận được, vấn đề này có thể được đưa ra Tòa án để giải quyết.
Mức cấp dưỡng
Theo Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quy định về mức cấp dưỡng là một phần quan trọng của việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các bên liên quan. Mức cấp dưỡng không được xác định cố định mà sẽ phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng, hoặc người giám hộ của người đó. Quá trình đàm phán để xác định mức cấp dưỡng sẽ tính đến thu nhập và tình hình tài chính thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, đồng thời cân nhắc đến nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có thể đạt được sự thỏa thuận trong việc xác định mức cấp dưỡng. Trong trường hợp này, vấn đề về mức cấp dưỡng có thể được đưa ra Tòa án để giải quyết. Tòa án sẽ xem xét tất cả các yếu tố liên quan và quyết định mức cấp dưỡng thích hợp dựa trên quyền lợi và nhu cầu của người được cấp dưỡng.
Một điểm quan trọng khác cần lưu ý theo Điều 116 là khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng đã được thỏa thuận có thể thay đổi. Việc điều chỉnh mức cấp dưỡng sẽ dựa trên thỏa thuận của các bên liên quan, nhằm đảm bảo rằng mức cấp dưỡng phản ánh tình hình thực tế và khả năng tài chính của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu cụ thể của người được cấp dưỡng. Trong trường hợp không thể đạt được sự thỏa thuận, vấn đề này có thể được đưa ra Tòa án để giải quyết và xác định lại mức cấp dưỡng phù hợp với tình hình mới.
Các trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng
Các trường hợp mà nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt đã được quy định rõ trong Điều 118 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, và chúng bao gồm:
+ Người được cấp dưỡng khi đã thành niên và có khả năng lao động hoặc sở hữu tài sản đủ để tự nuôi mình. Trong tình huống này, nghĩa vụ cấp dưỡng không còn áp dụng do người được cấp dưỡng đã có khả năng tự đảm bảo cuộc sống của mình.
+ Người được cấp dưỡng được công nhận là con nuôi của người cấp dưỡng. Khi quan hệ này được công nhận và người được cấp dưỡng được coi như con nuôi chính thức, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt.
+ Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng. Nếu người cấp dưỡng đã chăm sóc và nuôi dưỡng người được cấp dưỡng một cách trực tiếp, nghĩa vụ cấp dưỡng có thể chấm dứt khi không còn nhu cầu nuôi dưỡng.
+ Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng qua đời. Trường hợp này, nghĩa vụ cấp dưỡng tự động chấm dứt sau khi một trong hai bên qua đời.
+ Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn lại với người khác. Khi một bên sau khi ly hôn quyết định tái kết hôn với người khác, nghĩa vụ cấp dưỡng đối với bên cũ sẽ kết thúc.
+ Các trường hợp khác được quy định theo luật. Ngoài các trường hợp cụ thể nêu trên, có thể tồn tại các tình huống khác mà nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt theo quy định của pháp luật.
Vì sao nên chọn dịch vụ luật sư hôn nhân gia đình tại Công ty luật TNHH Quốc tế Nguyễn và Cộng sự - NVCS
Với hơn 10 năm kinh nghiệm, đội ngũ luật sư tại công ty chúng tôi đã tích lũy kiến thức sâu rộng và kỹ năng chuyên nghiệp trong lĩnh vực pháp lý liên quan đến hôn nhân và gia đình. Sự chuyên nghiệp và am hiểu sâu sắc về các quy định và thủ tục pháp lý liên quan đến hôn nhân là điểm mạnh của chúng tôi. Điều này đã giúp chúng tôi trở thành đối tác đáng tin cậy cho những người đang đối mặt với các vấn đề pháp lý trong lĩnh vực này. Chúng tôi tập trung vào việc tư vấn và hỗ trợ khách hàng một cách tận tâm. Sự nhạy bén và hiểu biết về tâm lý gia đình giúp luật sư tại đây hiểu rõ những khía cạnh nhân văn và tâm lý trong các vấn đề hôn nhân gia đình. Chúng tôi luôn tìm ra những giải pháp phù hợp và làm mềm dẻo những tình huống phức tạp. Với mục tiêu đem lại sự công bằng và hài lòng cho khách hàng, NVCS đã chứng minh được uy tín và đẳng cấp của mình trong lĩnh vực luật sư tư vấn hôn nhân gia đình.
dich-vu-luat-su-tu-van-hon-nhan-gia-dinh-nvcs
Luật sư: NGUYỄN THÀNH TỰU
Điện thoại: 09.19.19.59.39
Email: tuulawyer@nvcs.vn