
Họ tên: NGUYỄN THÀNH TỰU
Chức danh: Thạc sĩ - Luật sư - Trọng Tài Thương Mại - CEO
Điện thoại: +84 09.19.19.59.39
Email: tuulawyer@nvcs.vn
Lĩnh vực tư vấn: Đầu Tư Nước ngoài- Sở hữu Trí tuệ -M&A- Tranh chấp tại tòa.
Ngôn ngữ: Tiếng Việt - tiếng Anh
Người tố giác tội phạm đóng vai trò quan trọng, cung cấp những nguồn thông tin hữu ích và quan trọng trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, nhiều người vẫn đặt câu hỏi ai có quyền tố cáo tội phạm và lo sợ liệu họ có bị trả thù vì tố cáo tội phạm hay không. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của người tố cáo trong việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mình trong tố tụng hình sự.
1. Tố giác tội phạm là gì?
Tại Điều 144 BLTTHS quy định về tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau: “Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.”
Theo đó, có thể hiểu Tố giác tội phạm là việc tố cáo của công dân khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm.
Tố giác tội phạm được quy định là một trong những cơ sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Điều đó cũng khẳng định rằng, cơ quan có thẩm quyền muốn khởi tố vụ án hình sự, phát động những quan hệ tố tụng hình sự phải bắt đầu từ những tin tức về tội phạm được chính thức thông báo chứ không phải là những lời đồn đại không có căn cứ. Người báo tin về tội phạm không nhất thiết phải là người bị hại hoặc có quan hệ trực tiếp đến tội phạm đã xảy ra.
2. Ai là người có quyền tố giác tội phạm
Điều 144 BLTTHS quy định như sau:
- Tố giác, tin báo về tội phạm có thể bằng lời hoặc bằng văn bản.
- Người nào cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Như vậy, Công dân có quyền và nghĩa vụ tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà họ biết với các cơ quan, tổ chức. Luật cho phép công dân có thể tố cáo về tội phạm với bất cứ cơ quan, tổ chức nào mà họ thấy thuận tiện không nhất thiết phải là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong tất cả các trường hợp đó, sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội phạm có thể bằng miệng có thể trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại hoặc bằng văn bản…
Bên cạnh đó, pháp luật cũng đặt ra trách nhiệm của người tố giác đối với nội dung tố giác. Nếu tố giác không đúng sự thật thì có thể bị xử lý, nặng nhất là truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Quyền của người tố giác
Theo quy định tại Điều 57 BLTTHS thì người tố giác có quyền cụ thể như sau:
- Được thông báo về hành vi bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố;
- Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
- Trình bày lời khai, trình bày ý kiến;
- Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
- Được thông báo kết quả giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Nghĩa vụ của người tố giác
Người tố giác tội phạm có nghĩa vụ như sau:
- Phải có mặt theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm;
- Trình bày trung thực về tình tiết mà mình biết về sự việc.
Lưu ý: Khoản 5 Điều 144 BLTTHS bổ sung trách nhiệm của việc cố ý tố giác, báo tin về tội phạm sai sự thật sẽ bị xử lý hành chính hoặc chịu trách nhiệm hình sự tùy vào mức độ vi phạm.
5. Cơ quan tiếp nhận tố giác tội phạm
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 144 BLTTHS thì công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan, tổ chức khác; bất kể là cơ quan, tổ chức nào khi nhận được tố giác tội phạm từ công dân đều có trách nhiệm tiếp nhận.
Với quy định này, pháp luật đã mở rộng phạm vi tố giác tội phạm, tạo điều kiện cho người dân tham gia tố giác tội phạm được thuận tiện và rộng rãi, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức Nhà nước. Theo đó, mọi thông tin về tội phạm đều sẽ được nhanh chóng xử lý và khắc phục.
Cơ quan, tổ chức khi nhận được tố giác của công dân phải có trách nhiệm thông báo cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát bằng văn bản, để cơ quan xem xét việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Đối với những vụ án mà luật quy định chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì các cơ quan tiếp nhận thông tin ban đầu cần phải làm các thủ tục như đối với trường hợp khác khi công dân tố giác tội phạm. Cơ quan, tổ chức khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình mà phát hiện thấy có dấu hiệu tội phạm cũng phải báo tin ngay cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.