
Họ tên: NGUYỄN THÀNH TỰU
Chức danh: Thạc sĩ - Luật sư - Trọng Tài Thương Mại - CEO
Điện thoại: +84 09.19.19.59.39
Email: tuulawyer@nvcs.vn
Lĩnh vực tư vấn: Đầu Tư Nước ngoài- Sở hữu Trí tuệ -M&A- Tranh chấp tại tòa.
Ngôn ngữ: Tiếng Việt - tiếng Anh
Phòng vệ chính đáng có phải tội phạm hay không? Chế tài đối với “phòng vệ chính đáng” là vấn đề được nhiều người quan tâm và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng còn có nhiều ý kiến khác nhau nên đã dẫn đến những quyết định khác nhau trong các vụ án trên thực tế. Hãy cùng Luật NVCS làm rõ vấn đề này thông qua bài viết sau nhé!
1. Phòng vệ chính đáng là gì?
Phòng vệ chính đáng là hành vi của một người nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và để bảo vệ khi cần thiết người thực hiện hành vi đó làm tổn hại đến lợi ích trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Sau khi đã xem xét một cách đầy đủ, khách quan tất cả các mặt nói trên mà nhận thấy rõ ràng là trong hoàn cảnh sự việc xảy ra, người phòng vệ đã sử dụng những phương tiện, phương pháp rõ ràng quá đáng và gây thiệt hại rõ ràng quá mức (như: gây thương tích nặng, làm chết người) đối với người có hành vi xâm hại thì coi hành vi chống trả là không tương xứng và là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Ngược lại, nếu hành vi chống trả là tương xứng thì đó là phòng vệ chính đáng.
2. Phòng vệ chính đáng có phải là tội phạm không?
Tại khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Theo đó, phòng vệ chính đáng là hành vi đáp trả cần thiết đối với người bị xâm phạm quyền nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của tổ chức, cơ quan. Bài viết này cũng nói rõ ràng việc phòng vệ chính đáng không phải là một tội phạm. Căn cứ Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự 1985 (đã hết hiệu lực nhưng chưa có văn bản thay thế), trong đó Điều II của Nghị quyết này Nghị quyết đề cập đến chế độ phòng vệ chính đáng. Cụ thể, hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi có đủ các điều kiện sau:
- Hành vi gây tổn hại đến lợi ích cần được bảo vệ là hành vi phạm tội hoặc có biểu hiện nguy hiểm cho xã hội.
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội gây hoặc đe dọa gây tổn hại thực tế, tức thời đến lợi ích cần được bảo vệ.
- Phòng vệ chính đáng không chỉ loại bỏ các mối đe dọa và đẩy lùi các cuộc tấn công mà còn có thể chủ động chống lại sự lạm dụng, gây thiệt hại cho kẻ xâm lược.
- Hành vi phòng thủ phải tương xứng với hành vi xâm lấn, tức là không có sự khác biệt quá mức giữa hành vi phòng thủ với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm lấn. Tỷ lệ không có nghĩa là tổn hại mà người phòng thủ gây ra cho kẻ xâm lược phải “bằng” hoặc “nhỏ hơn” tổn hại mà người xâm lược đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng thủ.
Vì vậy, chúng ta có thể dựa vào những dấu hiệu trên để xác định hành vi chống trả có phải là hành vi phòng vệ chính đáng hay không.
3. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với vượt quá phòng vệ chính đáng
Mặc dù khoản 1 Điều 22 Bộ luật Hình sự đã nêu rõ phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm, tuy nhiên người nào có hành vi vượt quá phòng vệ chính đáng vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều này đã được nêu rõ tại tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“Điều 22. Phòng vệ chính đáng
...
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.”
Trong đó, giới hạn “cần thiết” được hiểu là biện pháp phòng vệ nói chung đủ mức ngăn chặn sự tấn công và bảo vệ được các lợi ích hợp pháp. Giới hạn cần thiết không có nghĩa là hậu quả mà người phòng vệ đã gây ra phải bằng hay tương đương với thiệt hại mà người có hành vi tấn công trái pháp luật định gây ra.
Như vậy, người có hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Mức độ chịu trách nhiệm hình sự sẽ tương ứng với mức độ vi phạm và hậu quả của người có hành vi vượt quá phòng vệ chính đáng gây ra.
Ví dụ: Ông A đang lái xe máy trên đường về nhà trên đoạn đường vắng thì bị hai tên cướp chặn đường, một tên dùng dao dọa đâm, tên còn lại tìm cách lấy chiếc xe máy. Ông A đã chống trả, đạp ngã tên cướp thứ nhất và lấy dao rượt theo đâm trọng thương tên cướp còn.
Trong trường hợp này, hành vi của ông A là vượt quá giới hạn và có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích.