Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì?

+84 09.19.19.59.39

Họ tên: NGUYỄN THÀNH TỰU

Chức danh: Thạc sĩ - Luật sư - Trọng Tài Thương Mại - CEO

Điện thoại: +84 09.19.19.59.39

Email: tuulawyer@nvcs.vn

Lĩnh vực tư vấn: Đầu Tư Nước ngoài- Sở hữu Trí tuệ -M&A- Tranh chấp tại tòa.

Ngôn ngữ: Tiếng Việt - tiếng Anh

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì và có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không? Mời các bạn cùng Luật NVCS phân tích rõ hơn thông qua bài viết sau đây!

1. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì?

Theo quy định của pháp luật, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội nghĩa không phạm tội đến cùng, kể cả khi không có gì thể ngăn chặn được. Đây là trường hợp người phạm tội ngừng phạm tội (đến cùng) và việc dừng phạm tội này không phải do trở ngại mà do ý chí chủ quan (của chính mình). 

Trước hết, chúng ta cần chú ý đến việc khi nào thì nên ngừng phạm thêm những tội ác “cực đoan”? Theo quy định, việc ngăn chặn tội phạm “đến cùng” chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau: Khi tội phạm đang chuẩn bị phạm tội hoặc đang trong quá trình phạm tội chưa phạm tội và thuộc các trường hợp sau đây: hoàn cảnh chưa thực hiện. 

Ví dụ: A đã chuẩn bị xong dụng cụ để giết B nhưng sau đó A thấy quá nguy hiểm, khó khăn nên B đã tự nguyện rút lui không phạm tội nữa. ...Hơn nữa, trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành thì trường hợp tự nguyện dừng tội giữa chừng không thể xảy ra vì người phạm tội đã phạm tội “đến cùng” (Ví dụ: A giết B chết). 

Trường hợp tùy tiện dừng tội giữa chừng không thể xảy ra khi tội phạm thuộc loại tội phạm chưa hoàn thành, vì trường hợp tội phạm chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã hoàn thành tất cả các giai đoạn của hành vi mong muốn, chủ thể không còn thực hiện hành vi đó nữa. tội phạm. do đó, không thể ngừng phạm tội thêm theo quy định của pháp luật. Khi đó, việc không tiếp tục phạm tội phải là “tự nguyện”, do ý chí của mình và “không thể ngăn cản được hành vi của mình”. 

Theo đó, việc không thể tiếp tục phạm tội phải hoàn toàn do động bên trong của người ý định phạm tội chứ không phải do những trở ngại khách quan (người khác ngăn cản, người khác giúp đỡ...). Khi bị bắt, kẻ phạm tội tiếp tục tin rằng hiện tại không có gì thể ngăn cản được hắnhắn vẫn có thể tiếp tục phạm tội. Mục đích bắt giữ cũng không phải để tiếp tục phạm tội sau này. vậy, việc ngăn chặn, chấm dứt tội phạm phải “quyết liệt”. 

Trên thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau như hối hận, sợ bị phát hiện, sợ bị trừng phạt, v.v..

2. Hình phạt đối với tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Theo Điều 16 Bộ luật Hình sự, người nào tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội đã định. Bởi vì trong trường hợp tự nguyện chấm dứt tội phạm giữa chừng thì ý chí chủ quan trí của người phạm tội đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ ý định phạm tội không còn mong muốn phạm tội “đến cùng” như trường hợp một tội ác còn dang dở. 

Hơn nữa, nhìn từ góc độ khách quan, hành vi được thực hiện của người  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giữa chừng chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của tội ác người đó muốn thực hiện chưa đủ các dấu hiệu tội phạm. do này, hành vi của một người  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giữa chừng được coi đã mất đi nguy phạm tội mình muốn phạm. 

vậy, việc miễn trách nhiệm hình sự “về tội cố ý” đối với người  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giữa chừng là có cơ sở và có căn cứ. 

Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định nếu hành vi thực hiện có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó. 

Ví dụ: một người giết người khi đang phạm tội  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giữa chừng thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự), nhưng người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. (Điều 134 Bộ luật Hình sự) nếu hành vi được thực hiện (trước khi bị bắt) dấu hiệu của tội này. Chẳng hạn, kẻ phạm tội ban đầu muốn giết người, nhưng sau khi đấm, đá nạn nhân, tội nặng đến mức cấu thành tội cố ý gây thương tích nên bỏ cuộc, không tiếp tục phạm tội.

Xem thêm bài viết: Phạm tội chưa đạt là gì?

3. Điều kiện thoả mãn tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Theo quy định trên, chúng ta có thể thấy điều kiện để một người được coi là  tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, đó là những điều kiện sau: 

– Thứ nhất, mặt khách quan của việc tự nguyện ngăn chặn tội phạm giữa chừng: 

Việc chấm dứt tội phạm chỉ có thể xảy ra khi tội phạm đang chuẩn bị phạm tội hoặc tội phạm chưa kết thúc. 

Ví dụ: Kẻ hiếp dâm vừa thực hiện hành vi cưỡng bức hoặc dọa dùng vũ lực nhưng chưa giao cấu với nạn nhân. 

Một khi tội phạm đã được thực hiện sẽ không còn bất kỳ điều kiện (cơ sở) nào để tự ý chấm dứt phạm tội nữa, vì khi đó hành vi đã thực hiện hoàn toàn nguy hiểm cho người phạm tội. Việc dừng lại điểm này sẽ không làm thay đổi tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã thực hiện. 

Điều kiện thoả mãn tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Điều kiện thoả mãn tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

 – Thứ hai, về mặt chủ quan của việc tự nguyện đình chỉ phạm tội: 

Việc chấm dứt tội phạm phải là sự chấm dứt tự nguyện và dứt khoát, không phải sự chấm dứt rụt rè. Nếu việc chấm dứt tội phạm những do nằm ngoài khả năng kiểm soát của người phạm tội thì việc chấm dứt tội phạm này không được coi là tự nguyện khi đang trong quá trình chấm dứt tội phạm mà có thể là sự chuẩn bị phạm tội hoặc một trọng tội chưa đạt được.

Xem thêm bài viết: Giai đoạn chuẩn bị phạm tội là gì?

LIÊN HỆ

Hotline: 0916.303.656 (Gọi​ ngay đ​ể​ đ​ư​ợc​ tư​ vấ​n miễn​ phí)

Email: luatsu@nvcs.vn 

Website: https://nvcs.vn/

 https://www.linkedin.com/company/nvcs-firm/

ĐĂNG KÝ NHẬN TƯ VẤN MIỄN PHÍ TẠI ĐÂY
DỊCH VỤ LIÊN QUAN
Thời hạn và thời hiệu truy tố là bao lâu?

Thời hạn và thời hiệu truy tố là bao lâu?

Khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định Viện kiểm sát phải ra một trong các quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án; Trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án/bị can trong thời hạn sau.
Đồng phạm có phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật không?

Đồng phạm có phải chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật không?

Trong vụ án đồng phạm tùy thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Đồng phạm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự trong phạm vi hành vi phạm tội của mình
Ai có quyền truy cứu trách nhiệm hình sự?

Ai có quyền truy cứu trách nhiệm hình sự?

Cơ quan nhà nước có quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm để xử lý những chủ thể vi phạm pháp luật. ãy cùng Luật NVCS tìm hiểu chi tiết về cơ quan có thẩm quyền này thông qua bài viết sau nhé
Phân biệt trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự

Phân biệt trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự

Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích.
Người tâm thần có phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật không?

Người tâm thần có phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật không?

Người tâm thần có phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật không? Nhiều vụ giết người đang diễn ra nhưng khi xét nghiệm, những tên tội phạm này đều có tiền sử được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định

Trước tiên cần hiểu thế nào là trách nhiệm hình sự. Dưới góc độ pháp lý, có thể hiểu trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể hiện ở chỗ người đã gây tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước.
KHÁCH HÀNG TIÊU BIỂU
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT

Để lại địa chỉ email của bạn để nhận những tin tức cập nhật về luật mới nhất

Chat với chúng tôi qua Zalo
Gọi ngay cho chúng tôi